Cưới hỏi – nghi lễ giàu bản sắc văn hóa Việt

Dân gian có câu: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà. Trong ba việc ấy thật là khó thay”. Cưới là nghi lễ truyền thống quan trọng nhất của cả đời người, trong đó có nhiều những lễ nghi không thể bỏ qua, vì vậy việc tổ chức một lễ cưới dù theo phong cách truyền thống hay hiện đại cũng cần được nghiên cứu hết sức cẩn trọng.

Nghi lễ cưới hỏi không thể thiếu tại bất kỳ quốc nào trên thế giới. Tùy thuộc vào phong tục tập quán của mỗi nước, mỗi vùng miền mà ở đó người ta có những cách tổ chức lễ cưới khác nhau. Chỉ nói riêng ở Việt Nam, trong tổng số 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại có những cách tổ chức lễ cưới theo phong tục riêng của mình. Cưới hỏi từ lâu đã là một nét văn hóa đẹp, mang đậm bản sắc của Việt Nam.

1. Một số nghi lễ cưới hỏi quan trọng

Chạm ngõ: là nghi thức gặp gỡ hai bên gia đình, dụng ý lần đầu tiên được biết nhau một cách công khai, chính thức. Từ đó thỏa thuận, tiến tới tác thành, xây dựng cho hai con. Đồ lễ mang sang nhà gái thường là trầu, cau, rượu, chè.

Lễ ăn hỏi: nhà trai mang lễ vật sang nhà gái hỏi vợ. Lễ vật đựng trong các tráp phủ vải điều màu đỏ, thường có trầu, cau, rượu, chè, bánh cốm, bánh xu xê, mứt sen, xôi, thủ lợn, lợn sữa quay.

Lễ đính hôn: về mặt ngữ nghĩa lễ đính hôn, hay lễ cầu hôn tương đương lễ ăn hỏi (hỏi vợ) của người Việt, tuy phương Tây thường thịnh hành phong tục trao nhẫn đính hôn đính kim cương hoặc đá quý cùng lời cầu hôn.

Lễ xin dâu: trước giờ đón dâu, mẹ chú rể hoặc một hai bà cô, bà dì, họ hàng thân thích (nữ) sang nhà gái để xin được đón dâu. Lễ vật trong lễ cưới người Việt thường là tráp đựng trầu têm cánh phượng.

Đón dâu: nhà trai đưa đoàn sang nhà gái đón dâu về, thường đi bằng xe. Lễ vu quy: diễn ra tại nhà gái, nơi tiễn cô dâu đi lấy chồng. Lễ thành hôn: còn gọi là lễ cưới nói chung, tuy vẫn thiên về chỉ lễ cưới chính thức tại nhà trai.

Tuần trăng mật: chỉ những ngày đầu tiên sau hôn lễ. Nhiều cặp vợ chồng trẻ có điều kiện thường tổ chức đi chơi du lịch tuần trăng mật tới những địa điểm có phong cảnh hữu tình. Tuần trăng mật cũng là thời điểm nghỉ ngơi cho cặp vợ chồng trẻ sau những ngày căng thẳng tiến hành hôn lễ.  

2. Giữ gìn nét văn hóa cưới Việt Nam

Ngày nay, một số nghi lễ cưới hỏi được lược bỏ bớt hoặc lồng ghép để tránh sự rườm rà trong tổ chức, các lễ chính còn giữ lại chủ yếu gồm: Lễ chạm ngõ, lễ ăn hỏi, lễ cưới, có nơi có hoặc bỏ lễ lại mặt và chỉ với những cô dâu chú rể trong gia đình khá giả, có điều kiện thời gian và công việc cho phép thì mới tổ chức được tuần trăng mật sau cưới. Và mùa cưới thường được chọn vào dịp cuối năm, bắt đầu từ tháng 8 âm lịch cho đến sang đầu năm mới, mùa cưới vẫn còn được tổ chức vào dịp đầu xuân.

Tiệc cưới cũng có sự thay đổi, thay vì tổ chức ở cả hai nhà và chọn giờ đi rước dâu thì nay cùng đặt tiệc tổ chức tại một nhà hàng, khách sạn để tiện cho việc tiếp khách, đơn giản một số thủ tục và hai bên gia đình không phải lo nghĩ về khâu tổ chức cũng như trang trí nữa vì đã có nhà hàng, khách sạn lo chu tất.

Đó là đối với các gia đình khá giả ở các thành phố lớn, còn ở các tỉnh lẻ hay vùng nông thôn, tiệc cưới vẫn giữ nếp xưa: bạn bè được mời đến ăn trầu uống nước tối hôm trước, hôm sau là ăn cỗ cưới và dự lễ đón dâu, có nơi còn tổ chức nhảy múa, ca hát rộn ràng, tưng bừng mừng cho lễ cưới.

Dù tiệc cưới có thay đổi để phù hợp với cuộc sống mới, một số những thủ tục trong lễ cưới vẫn được giữ và tổ chức trang trọng, đó là lễ trải chiếu, lễ gia tiên, lễ trao nhẫn cưới, trao của hồi môn, … Người Việt Nam rất coi trọng gia phong và những lễ nghi truyền thống, người Việt Nam thường quan niệm về cuộc sống yên vui hạnh phúc, gặp nhiều may mắn là phải theo những lễ nghi truyền thống đó để có được sự an lành về sau.  

.